Thầy Nguyễn Hữu Tảo, thầy Trần Văn Kháng và thầy Trần Văn Giáp là ba thầy giáo được các giáo sinh khu học xá Trung ương chúng tôi tôn xưng là "Ba' - Ba Tảo, Ba Khang, Ba Giáp - các gọi thân thiết này đã nói lên mối quan hệ thầy trò vừa kính trọng vừa thân yêu, mà không phải là nhà giáo cao tuổi nào cũng đều được hưởng vinh dự đó
Thầy Tảo rất mực nghiêm nghị nhưng lại không cách bức với mọi người. Từ y phục cho tới nói năng, bao giờ cũng tỏ ra đúng mực và sự tôn trọng người đối thoại. Tính trung thực, thẳng thắn nhân hậu, hết lòng vì học sinh, vì sự nghiệp giáo dục nhưng rất ít nói về bản thân, ít đòi hỏi cho mình. Vốn là giáo viên khoa học tự nhiên, song do uy tín sư phạm mẫu mực và do hoạt động xã hội tích cực, cho nên, ngay sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, thầy Tảo đã được chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà lần lượt giao cho nhiều trọng trách trong ngành giáo dục: Tổng Giám đốc Vụ tiểu học, rồi Giám đốc giáo dục khu I Việt Bắc khi khách chiến chống Pháp bùng nổ, Tổng thư ký, Hội đồng tu thư ký trung ương....
Năm 1951, khi thành lập khu học xá Trung ương, thầy Tảo đã được vinh dự cùng một số nhà giáo lâu năm như Lê Thị Nhu, Nguyễn Lâm...v.v... xây dựng bộ môn Tâm lý - giáo dục học macxit đầu tiên của nước ta, một môn học hoàn toàn mới đối với các trường sư phạm nước ta hồi đó. Thầy đã dành trọn vẹn những năm sung sức cuối đời ở tuổi 50 và 60 cho sự nghiệp mới mẻ và khó khăn này cùng với các nhà giáo lâu năm nói trên và với một số giáo viên trẻ có tâm huyết với bộ môn Tâm lý - giáo dục học như Nguyễn Đức Minh, Hà Thế Ngữ, v.v... thầy Tảo hăng hái bắt tay vào việc khai sơn, phá thạch để đặt nền móng cho bộ môn này ở Khu học xá và sau đó cho nhiều trường sư phạm của nước ta. Tìm đọc các sách báo tâm lý học và giáo dục học của ngoài, chủ yếu của Liên Xô (dịch sang tiếng Trung Quốc), làm việc với các chuyên gia giáo dục Xô viết như P.M. Xamaucôp, Praxetxki, dịch và biên soạn các giáo trình tâm lý học - giáo dục học.... dần dần bộ môn Tâm lý - giáo dục macxit Việt Nam đã hình thành, lúc đầu là Tổ bộ môn Tâm lý - giáo dục học, sau đó trở thành Khoa (1965). Và với sự tiếp nối của nhiều thế hệ giáo sinh sau này, vào dịp kỷ niệm 30 năm thành lập khoa (3/1965 - 3/1995), Khoa Tâm lý - giáo dục học trường Đại học Sư phạm Hà Nội I đã được Nhà nước CHXHCN Việt Nam tặng thưởng Huân chương lao động hạng III.
Nhiều thế hệ học sinh - trước và sau cách mạng tháng 8/1945 - đều nhớ tới Thầy Tảo, với hình ảnh của một nhà giáo mẫu mực. Một cử chỉ đẹp đã được nhiều người biết tới là, trong một lần thời thăm trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đồng chí Trường Chinh, một học trò cũ của thầy Tảo, sau khi nhận bó hoa do Hiệu trưởng Phạm Huy Thông thay mặt trường tặng mình, đã đi xuống hội trường tặng lại cho thầy Tảo - "Người thầy giáo yêu kính của tôi thời kỳ tôi học trường Thanh chung Nam Định".
Thầy ra đời năm 1900 trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Trung Tự ngoại thành Hà Nội. Có lẽ truyền thống hiếu học của dòng họ đã giúp nhiều cho sự phấn đầu vượt khó lâu dài để trở thành một nhà giáo mẫu mực cả về giảng dạy và đào tạo. Cụ tổ xa xưa hồi cuối thế kỳ XVIII là Nguyễn Hi Quang đã từng là thị giảng trong cùng đình. Sách lịch triều tập kỷ đã ghi như sau: Lấy tư cách là bậc sư thần (thầy học và bầy tôi), Quang giữ ginf cẩn thận, có công lao trong việc phụ chính. Khi mất được phong tước quận công, lại phong Phúc thần (Đại vương). Cụ nội là ông nghè Nguyễn Văn Lý, hiệu Chí Đình, đốc học Hưng Yên, một thầy giáo nổi tiếng ở Hà Nội, Giữa thế kỷ XIX. Cha để là Nguyễn Hữu Cầu, cử nhân Hán học, khi đó không ra làm việc cho thực dân mà tham gia Đông Kinh nghĩa thục. Cụ đã kịch liệt phê phán các thói tục lỗi thời với một bài nổi tiếng là Y tục luận (bàn về việc thói tục cũ). Chuyện hoạt động yêu nước của cụ được ghi trong sách Danh nhân Hà Nội (Hội văn nghệ Hà Nội xuất bản, 1975).
Ngay từ khi con mới 5 tuổi, cụ đã rất coi trọng dạy con học và đã dạy hết chương trình nho học trừ môn thơ phú. Năm 14 tuổi cho con vào trường tiểu học Hàng Kèn. Không may cuối năm đó, cụ bị thực dân bắt lưu đầy Côn Đảo do tiếp tục hoạt động yêu nước bị lộ. Thầy Tảo được cha mẹ và chị hết long giúp đỡ càng phải nỗ lực học tập. Năm 17 tuổi đỗ vào trường Buổi, 21 tuổi thi đậy vào trường Cao Đẳng sư phạm.
Sau khi tốt nghiệp, năm 1942 thầy được bổ nhiệm về dạy ở trường Thanh Chung Nam Định, trong tai luôn văng vẳng câu thơ do cha nói từ Côn Đảo về căn dặn:
"Học vấn danh cao thật mạc tâm" (cái danh học vấn là cao nhưng phải là cái học có thực lực, và được dùng vào thực tiễn thì mới không thẹn)
Từ đó thầy đã toàn tâm toàn ý gắn bó với cuộc đời mình với sự nghiệp giáo dục cho tới khi qua đời năm 66 tuổi. Ngay từ những năm đầu ở trường Nam Định rồi 2 năm sau chuyển về trường Bon - nan Hải Phòng (nay là trường PTTH Ngô Quyền) thầy đã để lại trong học sinh nhiều kỷ niệm đẹp. Hồi ký của Thế Lữ do Xuân Diệu ghi vào năm 1974 có một đoạn kể lại về thời kỳ ở trường Hải Phòng như sau:
"Từ năm 1924 - 1925 tinh thần ái quốc nhóm lên trong học sinh qua báo Việt Nam hồn từ bên Phép gửi về. Thêm ảnh hưởng tốt của các thầy giáo: Trịnh Đình Rư, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Hữu Tảo. Thầy Nguyễn Hữu Tảo dại khoa học, khuyên học sinh thành nhà khoa học giỏi để sau này giúp nước, cuối năm học trò đến thăm thầy, thầy nói tâm sự, thầy trò tâm đắc với nhau".
Nhiều người học thầy thời kỳ sau đó, kể: Ngoài việc tận tình giảng dạy, những ngày nghỉ lễ, thầy thường tổ chức các cuộc đi thăm các di tích lịch sử, khơi gợi lòng yêu nước. Khi có phong trào Hướng đạo sinh với khuynh hướng tiến bộ do nhà giáo yêu nước Hoàng Đạo Thuý tổ chức (cụ Thuý sau cách mạng tháng 8 giữ nhiều chức vụ quan trọng và được coi là một trong nhà văn hoá có nhiều đóng góp lớn). Thầy Tảo tổ chức nhiều đoàn cho học sinh trong trường và thanh niên hăng hái khác ở Hải Phòng tham gia. Thầy làm Uỷ viên trưởng Đạo Cửa Cấm. Thầy còn cùng một số người nhiệt huyết như Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Văn Lợi, Nguyễn Công Mỹ.. (sau này cùng giữ nhiều nhiệm vụ quan trọng) thành lập Hội Truyền bá quốc ngữ, một hình thức tổ chức hoạt động do Đảng đề xướng ở Hải Phòng, vận động nhiều học sinh và thanh niên tham gia. Phòng, vận động nhiều học sinh và thanh niên tham gia. Nhằm góp phần hơn nữa vào sự nghiệp giáo dục, Thầy viết và dịch sách, có một số đã được ấn hanh như: Đạo làm người, Đời đoàn thể, Lòng vàng (dịch từ cuốn Grand coeur nổi tiến của nhà văn ý Edmond de Amici) do nhóm "Tam Hữu" gồm một số trí thức tiến bộ ở Hải Phòng - Kiến An xuất bản.
Sau cách mạng tháng 8/1945, khi làm nhiệm vụ quản lý giáo dục như nói trên, thầy Tảo đã tổ chức nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên tiểu học cũ chuyển mình theo đường lối, quan điểm của nền giáo dục dân chủ mới. Từ cuối năm 1951, trong cương vị phụ trách tổ bộ môn Tâm lý - giáo dục học ở trường Sư phạm trung và cao cấp rồi trường Đại học sư phạm Hà Nội, Thầy đã cùng các đồng nghiệp dịch cuối Giáo dục học của Viện sĩ Cai rốp (Liên Xô cũ) (sau này còn dịch cuốn Đạo đức học của S.L.XKin) cùng nhiều tài liệu khác và biên soạn giáo trình môn học, tổ chức nhiều khoá đào tạo, bồi dưỡng giáo viên tâm lý - giáo dục học, đặt nền tảng cho việc ra đời cảu Khoa Tâm lý - giáo dục học sau này là đóng góp một phần vào việc hình thành và phát triển đội ngũ những người giảng dạy và nghiên cứu về khoa học giáo dục của nước ta.
Năm 1953 thầy được bầu là Chiến sĩ thi đua toàn Khu học xá TW, khi kháng chiến thắng lợi, Thầy được Nhà nước tặng Huân Chương kháng chiến hạng nhì.
Tháng 12 năm 1964, thầy Tảo được nghỉ hưu vào tuổi 65. Trong buổi họp mặt đồng nghiệp để chia tay thầy đã tặng bạn bè một bài thơ đầy cảm động.
"Sao đã ngồi yên hưởng thái bình
Chân đi còn dẻo, mặt con tinh,
Còn ghi lời Mác rành trong dạ
Hạnh phúc tìm trong còi đấu tranh"
Thầy tích cực tham gia dạy bổ túc văn hoá cho bà con làng xóm ở làng Trung Tự, quận Đống Đa, Hà Nội và khi đi sơ tán thì dạy cho bà con nơi đó.
Tháng 9 năm 1966 thầy bị xuất huyết não và qua đời khi mới được nghỉ hưu hơn một năm. Đám tang đã được tổ chức rất trọng thể ở Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô với đông đảo đồng nghiệp và học sinh cũ của thầy. Khi đến viếng, đồng chí Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), một học sinh cũ, đã ân cần căn dặn con cháu thầy Tảo cần tiếp tục làm rạng rỡ thêm hình ảnh nhà giáo yêu nước tận tuỵ của Thầy bằng công việc cảu bản thân. Năm người con của Thầy làm giáo viên, một con và cháu nội đang tiếp tục sự nghiệp tâm lý - giáo dục học.
Đối với chúng tôi, những thế hệ học sinh, giáo sinh may mắn được học thầy Tảo và nối gót sự nghiệp giáo dục, hình ảnh thầy Tảo mãi mãi có tác dụng cổ vũ giục giã chúng tôi soi mình vào tấm gương suốt đời tâm huyết phục vụ nghề dạy học, nghề "trồng ngươi", vun trồng nhân tài cho Tổ quốc. Chúng tôi luôn tự hào và trần trọng nhắc tới thầy - một nhà giáo mẫu mực, một người đã có công khai sơn phá thạc cho bộ môn tâm lý giáo dục học Việt Nam.
II. NHÀ GIÁO NHÂN DÂN,GIÁO SƯ NGUYỄN LÂN - NGƯỜI CHỦ NHIỆM KHOA ĐẦU TIÊN
Nhân kỷ niệm 30 năm thành lập khoa Tâm lý - giáo dục, chúc mừng nhà giáo nhân dân, chủ nhiệm đầu tiên của Khoa Tâm lý - Giáo dục - GS.Nguyễn Lân thượng thọ 90 tuổi, lãnh dạo Khoa trân trọng giới thiệu các thế hệ học trò của Khoa và độc giả một số sự kiện, đánh dấu những mốc lớn trong cuộc đời hoạt động giáo dục và xã hội của GS.Nguyễn Lân
TIỂU SỬ
Họ và tên: Nguyễn Lân
Bút danh: Từ Ngọc
Sinh ngày 14/6/1906 tại làng Ngọc Lập, tỉnh Hưng Yên cũ.
Tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương năm 1932.
QUÝ TRÌNH CÔNG TÁC.
a) Trước cách mạng tháng tám
- Dạy học ở hai trường tư thục Hồng Bàng và Thăng Long (từ 1932 đến 1935)
- Dạy học ở trường Quốc học, trường Đồng Khánh và trường Bách Công ở Huế từ năm 1935 đến năm 1946.
- Một trong những người sáng lập ra Hội truyền bá chữ Quốc ngữ ở Trung kỳ, phụ trách việc soạn tài liệu giáo khoa và đảm nhận việc giảng dạy và kiểm tra trong tỉnh Thừa Thiên.
b) Từ sau cách mạng tháng tám.
1. Công tác chính quyền.
- Uỷ viên giáo dục tỉnh Thừa Thiên (1945)
- Giám đốc học chính Trung Bộ (1945 - 1946)
- Dạy học ban chuyên khoa trường Chu Văn An ở Hà Nội (1946)
- Giám đốc giáo dục Liên Khu 10 (1947 - 1949)
- Giám đốc giáo dục Liên khu Việt Bắc (1949-1951)
- Dạy học ở trường Sư phạm trung cấp, trường Hoa ngữ và trường Sư phạm cao cấp ở khu học xá Trung ương Nam Ninh, Trung Quốc (1951-1956)
- Dạy học ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội từ 1956
- Chủ nhiệm bộ môn Giáo dục - Tâm lý học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1958)
- Chủ nhiệm khao Tâm lý - Giáo dục học từ 1965 - 1971.
- Về hưu năm 1971
2. Công tác đoàn thể.
- Hội trưởng Hội văn hoá Trung Bộ (1945 - 1946)
- Hội trưởng Hội văn hoá Liên khu 10 (1947- 1949)
- Hội trưởng Mặt trận Liên Việt Liên khu 10 (1947-1949)
- Phó Hội trưởng Mặt trận Liên Việt khu Việt Bắt (1949-1951)
- Uỷ viên thường vụ Công đoàn giáo dục Liên khu Việt Bắc (1950-1951)
- Thư ký Công đoàn giáo dục Trường Đại học sư phạm và trường ĐH Tổng hợp Hà Nội (1957-1958)
- Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng xã hội Việt Nam từ 1960
- Uỷ viên thường vụ Trung ương Đảng xã hội Việt Nam từ 1984 đế khi Đảng giải thể.
- Uỷ viên Trung ương Mặt trật Tổ quốc Việt Nam từ Đại hội lần thứ hai đến nay.
3. Khen thưởng.
- Thư khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh (năm 1948)
- Phần thưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (số 162 SV, ngày 25/01/1949)
- Huân chương Kháng chiến hạng nhì (10/01/1962)
- Huân chương lao động hạng ba (17/11/1070)
- Chiến sĩ thi đua 7 băn liền kề 1963 đến 1969
- Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất (16/9/1989)
- Huân chương lao động hạng nhì (13/11/1986)
- Được Hội đồng Nhà nước phong tặng danh hiệu "Nhà giáo nhân dân" (11/11/1988)
- Huân chương hữu nghị của Nhà nước Campuchia (14/5/1991)
- Huân chương Độc lập hàng nhì (9/12/1991)
Tác phẩm giáo dục và văn nghệ.
a) Trước cách mạng tháng Tám.
- Cậu bé nhà quê (tiểu thuyết giáo dục - 1925), có bản dịch ra tiếng Pháp của Afred Bouchet, lấy tên là Le Petit Campagard - sách được nhận làm sách giáo khoa ngày 16/10/1934.
- Khói hương (tiểu thuyết xã hội - 1935), nhà xuất bản Tân Dân Hà Nội
- Ngược dòng (tiểu thuyết xã hội -1936), nhà xuất bản Tân Dân Hà Nội
- Nguyễn Trường Tộ, nhà xuất bản Viễn Đệ Huế (1944) và nhà xuất bản Mai Lĩnh Hà Nội tái bản (1942).
- Những trang sử vẻ vang (hai tập, 1943), nhà xuất bản Mai Lĩnh Hà Nội
- Báo chí: trợ bút Phụ nữ thời đàm và AJS (Ami de la Jeunesse Studieuse) trong những năm 30
b) Sau cách mạng tháng Tám
- Muốn đúng chính tả (1949) nhà xuất bản Thịnh đức (Chiến khu 10)
- Giảng viên (1951) Trung học vụ Liên khu 10 xuất bản.
- Ngữ pháp Việt Nam (từ lớp 3 đến lớp 7), Bộ giáo dục xuất bản năm 1956.
- Để tìm hiểu Gooki, 1958 - Nhà xuất bản Thanh niên.
- Lịch sử giáo dục học thế giới (1958) - nhà xuất bản Giáo dục.
- Khảo thích Truyện Trê Cóc (1959) - nhà xuất bản Văn hoá.
- Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa (1960) - nhà xuất bản Sự Thật.
- Giảng dạy trên lớp (1961) - nhà xuất bản Giáo dục.
- Giáo trình Giáo dục học (công tác với tập thể 1961 - nhà xuất bản giáo dục)
- Công tác chủ nhiệm lớp (1962) - nhà xuất bản giáo dục.
- Từ điển chính tả phổ thông(cùng tập thể, 1963)-Viện Văn học xuất bản
- Luận lý lớp sáu phổ thông và lớp bảy phổ thông (cùng tập thể, 1964) - nhà xuất bản Giáo dục.
- Viết thế nào cho đúng (cùng tập thể, 1965) - Hội nhà báo Việt Nam xuất bản.
- Thuật ngữ tâm lý giáo dục (cùng với tập thể, 1967) - Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
- Từ điển tiếng Việt (cùng tập thể) Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1967, tái bản năm 1977 và năm 1991.
- Làng Krixtốp của Romain Rolland (dịch cùng tập thể, 4 tập, 1976) - nhà xuất bản văn học.
- Từ điển Pháp - Việt (cùng tập thể) do Tổ chức hợp tác văn hoá và kỹ thuật ACCT xuất bản tại Paris năm 1981, tái bản năm 1988 của Paris và ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Lớp nhà ba thế hệ (cùng tập thể) - Uỷ ban khoa học kỹ thuật Nhà nước xuất bản 1986.
- Từ điển từ và ngữ Hán - Việt (1989) - nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh - Từ điển Việt - Pháp (cộng tác với giáo sư Lê Khả Kế) - Nhà xuất bản Khoa học xã hội 1989, tái bản năm 1991
- Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (1989) - Nhà xuất bản Văn hoá, Nhà xuất bản Khoa học xã hội tái bản năm 1993
- Hồ Chủ tịch, Nhà giáo vĩ đại (1990) - Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
- Con người văn mính ống như thế nào (1990) - Nhà xuất bản Thanh niên, tái bản năm 1993.
- Từ điển thành ngữ, tục ngữ Pháp - Việt (1993) - Nhà xuất bản giáo dục
- Trao đổi về tình thầy trò (1993) - Nhà xuất bản Thanh ninh.
- Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt - Pháp - Nhà xuất bản văn học (1994).
- Nhớ nguồn (tập thơ) - Nhà xuất bản văn học (1994)
- Báo chí: Phụ trách tạp chí Tổng quốc trong nhiều năm.
TLGD (Theo TLGD)